Fb Boristo Nguyen, 08-11-2021
Hôm rồi, Moscow trời mù mịt vì sương mù, “tầm nhìn xa” chắc chỉ dư trăm mét. Bao năm mới có đợt trời mù như vậy, tôi lại nhớ đến chuyến bay bão táp từ Berlin về Moscow cũng cùng khoảng thời gian, năm 1987. Năm đó, Moscow và nhiều thành phố khác sương mù còn nặng hơn nhiều và kéo dài ngày …
Tháng Mười năm 1987 tôi được cử đi dự hội nghị khoa học về đưa Tin học vào nhà trường phổ thông. Hội nghị tổ chức tại Halle, Đông Đức, dưới sự bảo trợ của SEV và Viện HLKH CHDC Đức. Vé máy bay, ăn ở do nước chủ nhà tài trợ. Mọi thủ tục, đặt vé máy bay và nhất là liên lạc với bạn đều phải qua Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Giáo dục. Dạo đó chưa có đường bay thẳng, tôi phải bay transit qua Nga, dừng lại ở Moscow 2 ngày.
Chuyển bị và lên đường. Đó là những năm vô cùng khó khăn, mỗi người đi công tác nước ngoài đều cố gắng mang hàng sang bán rồi dành dụm mua đồ về. Tôi cũng vậy. Cái khó là tiền không có. Lương ba cọc ba đồng, vợ chửa bục mặt mà vẫn phải ngồi xe chồng đèo đi dạy thêm tiếng Nga với thù lao không đáng kể. Chạy quanh khắp nơi vay người thân được 2-3 chỉ vàng, bán đi mua cũng được ít son phấn, phông cành mai, áo cá sấu, đôi quần bò Thái. Dạo đó, tôi cũng bắt trước mọi người mua theo chứ đâu đã có ý thức về hàng thật, hàng nhái. Sau này nghĩ lại, toàn là hàng rởm. Được cái thời đó Liên Xô thiếu hàng, thật rởm mua tất. Có cậu em con bà cô mới đi Nga về còn thừa cho mượn mấy cái đồng hồ. Thấy bảo đồng hồ gắn 12 hạt đá quí, mang sang Nga bán chạy lắm. Hàng tôi mang vừa phải, không đến mức phải độn một đống áo phông, mặc mấy quần bò như nhiều người khác. Tuy vậy, mỗi lần qua cửa hai quan cũng là một lần thót tim. Nhưng rồi đều trót lọt, cả ở sân bay Nội Bài lẫn Sheremetevo. Chỉ buồn sang đến nơi, về đến nhà người anh đang làm NCS ở Moscow, đồng hồ chiếc thì kim bị kẹt không chạy, chiếc thì đá rụng, không bán được. Chán hẳn.
Đến Đức, bơ vơ không ai đón. Hai hôm sau tôi để đồ lại nhờ người anh giải quyết giúp rồi bay tiếp đi Đức. Theo kế hoạch khi đến Berlin bạn sẽ đón tại sân bay rồi đưa đi tiếp Halle, người của Vụ Hợp tác quốc tế nói với tôi như vậy.
Bay đến nơi, xong thủ tục biên phòng tôi ra ngoài tìm người đón. Nhìn quanh, hỏi lung tung cũng chẳng thấy ai đón nên cũng bắt đầu lo. Chờ cả tiếng vẫn chẳng ai đến đón. Hai ba tiếng sau cũng vậy. Lúc này thì lo thật sự. Tiền không có, địa chỉ liên lạc cũng không, lại đất khách quê người. Sau một hồi định thần, tôi mới đi tìm cuốn sách vàng tra cứu thông tin, tìm được địa chỉ đại sứ quán Việt Nam ở Berlin. Nghĩ lại mới thương các bạn trẻ từ các vùng quê sang Nga kiếm ăn cùng cảnh ngộ. Xuống sân bay không ai đón, không biết đi đâu về đâu, tiếng tăm không biết, ngơ ngơ ngác ngác.
Có được địa chỉ đại sứ quán, tôi đi bus vào thành phố rồi đi tiếp tàu điện về đại sứ quán. Tất nhiên là đi lậu vé vì không có tiền. May mà trót lọt, không bị kiểm tra.
Đến được sứ quán, nghĩ như về được nhà đã mừng. Nhưng không hẳn vậy. Hôm đó chiều thứ 7, sứ quán vắng tanh, bấm chuông gõ cửa mãi mới có người ra mở cổng. Người mở cửa là anh X, lâu ngày không nhớ tên, chỉ nhớ anh phụ trách về khoa học hay văn hóa gì đó của đại sứ quán. Tôi trình bày hoàn cảnh, nhờ giúp đỡ. Nói mãi mà anh vẫn lắc đầu: sứ quán không thể giúp được gì. Đường cùng, tôi chơi bài Chí Phèo. giở hộ chiếu và chỉ vào trang đầu mà nói: Đây này, trong hộ chiếu có ghi rõ nhà nước yêu cầu các cơ quan có liên quan chịu trách nhiệm giúp đỡ công dân mình. Ở đời, gặp người rơi vào hoàn cảnh cơ nhỡ, là con người người ta còn giúp đỡ nhau. Tôi là cán bộ nhà nước đi công tác, không may như vậy các anh lại không giúp, giờ tôi biết đi đâu về đâu?. Nghe vậy anh X đổi giọng. Anh nói: có rất nhiều cán bộ từ trong nước sang do làm ăn tắc trách ở nhà mà bị rơi vào hoàn cảnh như tôi, sứ quán không có tiền để giúp hết mọi người. Anh rút 10 mác đưa tôi và bảo là tiền cá nhân coi như anh giúp, biếu tôi. Tôi nói: em sẽ nhất định quay lại trả anh. Sau đó anh dẫn tôi đi tàu điện về nhà khách sứ quán. Tôi cảm động và coi anh là ân nhân của mình.
Hú hồn.
Nhà khách sứ quán, đội quân chuyên gia châu Phi. Đến được nhà khách sứ quán là yên tâm. Thời kì này, nhà nước cho phép các cơ quan làm kế hoạch 3. Đại sứ quán cũng vậy, họ cho người ngoài thuê, mỗi tối 3 mác, 4 người một phòng. Hôm đó, nhà khách đông kín người, toàn dân chuyên gia châu Phi qua tá túc. Tôi được phân vào phòng ở cùng với mấy bác chuyên gia Algeria. Họ tranh thủ ngày nghỉ kéo nhau sang Đông Âu, ròng ròng qua mấy nước vừa đi chơi vừa kết hợp buôn. Toàn các trí thức có hạng của Việt Nam. Thương các cụ có tuổi mà vẫn phải đi xa nhà, lọ mọ kiếm ăn.
Mọi người đón tiếp tôi vui vẻ, coi như cùng hội. Tôi vẫn nhớ chuyện trao đổi với một giáo sư nổi tiếng của bệnh viện 103. Cụ say sưa kể về tác dụng của việc học đàn piano. Các con cụ đều cho học đàn nghiêm chỉnh dù không đứa nào theo nghề nhạc. Cũng vì ấn tượng bởi câu chuyện này, vài năm sau khi quay lại Nga chúng tôi đã cố gắng cho các con mình theo học trường nhạc, dù đó là thời khó khăn, loạn lạc của nước Nga. Và đúng là việc học đàn giúp ích rất nhiều trong đời.
Ngày chủ nhật tôi tranh thủ đi chơi thành phố. Berlin cũng không có gì đặc biệt. Sáng thứ 2, vừa ăn sáng xong thì có người gõ cửa vào nhà khách và hỏi oang oang: các bác cho hỏi bác nào từ Việt Nam sang dự hội nghị? Khi mọi người chỉ tôi, cậu ấy trố mắt: Việt Nam mình giờ tiến bộ nhỉ, cho cả người trẻ như anh đi dự hội nghị nước ngoài? Khi ấy tôi cũng đã 30 tuổi. Lúc sau quen trở nên thân tình, tôi mới hỏi: sao lại hỏi vậy? Cậu trả lời: lâu nay em thấy ở nhà đưa sang đây toàn các cụ chuyển bị về hưu, cho đi một chuyến dối già.
Cậu người tên là Hà, trước học ở Đức rồi lấy vợ và ở lại. Hà làm cho trung tâm phiên dịch Berlin, được ban tổ chức hội nghị thuê đón tôi. Hà nói, phía Đức chẳng thấy đầu Việt Nam thông tin về ngày giờ sang, may có anh ở ĐSQ gọi điện thông báo nên họ mới biết. Thôi thì Việt Nam mình nó thế, biết làm sao được?
Hội nghị ở Halle, được mua áo lông. Hà đưa tôi ra ga, mua vé và tiễn tôi, hẹn gặp lại khi quay về Berlin. Tàu đến Halle, vừa xuống tàu thì một cậu Hà khác đã đứng sẵn, đón và đưa tôi về nơi nghỉ. Hội nghị diễn ra trong 3 ngày, nói chung là suôn sẻ. Việt Nam lúc đó cũng mới đi những bước đầu tiên trong việc đưa Tin học vào nhà trường. Mọi cái đang còn manh nha, khởi đầu. Qua hội nghị, tôi cũng hiểu và biết thêm về việc đưa Tin học vào nhà trường của các nước Đông Âu, như một môn học và như công cụ dạy học. Báo cáo của tôi cũng được mọi người quan tâm, được đề cử vào nhóm điều phối về việc đưa Tin học vào nhà trường, được mời dự hội nghị năm tiếp theo tại Sophia, Bulgary. Nhưng đấy không phải là chuyện muốn nói ở bài viết này.
Ngày thứ hai của hội nghị, lúc giải lao, một người của ban tổ chức bảo tôi cùng đi vào trung tâm. Hà cũng đi cùng. Anh bạn người Đức đưa tôi vào siêu thị, kiểu như cửa hàng Bách hóa tổng hợp của thành phố. Anh nói, ban tổ chức tặng, cho phép tôi mua một món quà nhưng không quá 500 mác. Chỉ được mua một thứ. Cửa hàng rất lớn, quần áo, dày dép đủ loại. Hà nói với tôi: anh cứ mua 2 cái áo lông màu cứt ngựa, mỗi cái hơn 90 mác, cái để mặc, cái mang về Việt Nam bán. Thời đó, áo lông Đức đang mốt, nếu nhớ không nhầm mỗi cái khoảng nửa chỉ vàng. Tôi nói: sao bảo chỉ được mua một thứ thôi mà? Hà nói: em thấy Việt Nam mình sang đây ai cũng vậy, nì nèo một lúc họ cũng thông cảm, có người còn làm 3 cái. Nghe cũng thích nhưng tính tôi cả đời không thích xin ai nên không theo, chỉ mua một cái áo khoác lông màu sáng, gần 200 mác.
Khi trả tiền xong anh bạn người Đức mới nói với tôi: cám ơn ông, ông là người Việt đầu tiên đã không làm khó cho tôi. Vừa cảm thấy mình được tôn trọng nhưng cũng cảm thấy tủi cho người Việt mình.
Trở lại Berlin. Bất ngờ gặp lại Bob, cậu bạn cùng phòng thời sinh viên. Hết hội nghị tôi quay lại Berlin. Hà đón tôi và đưa về nghỉ tại khách sạn Alexanderplatz. Khách sạn nằm ngay tại quảng trường trung tâm Alexander. Thời đó, được ở khách sạn này là hơi bị sang. Nhận phòng, rửa mặt xong tôi xuống sảnh khách sạn khách sạn để gọi điện thoại cho người đến nhận quà. Đang gọi thì nghe thấy giọng nói quen quen ở cabin bên cạnh, ngờ ngợ mà không nhớ giọng của ai. Gọi điện thoại xong, tôi ngó qua thì người bên kia cũng ngó lại. Ôi Bob!. Ôi Phong! Sao mày lại ở đây? Thế là chúng tôi ôm chầm lấy nhau.
Bob sống cùng phòng với tôi 2 năm cuối, sau 6 năm tình cờ gặp lại nhau tại Berlin. Quá thật bất ngờ. Hỏi thăm nhau vài câu, Bob vội kéo tôi ra xe và đưa về nhà chơi. Dọc đường, Bob cho xe dừng lại và tạt vào một cửa hàng bách hóa tổng hợp. Bob cứ hỏi: mày thích gì? Vợ mày thích gì? Tao mua cái này cho con mày nhé? Bob vơ vội vơ vàng một đống đồ, bảo: tao mua tặng mày. Hôm đó là chiều thứ 6, cửa hàng sắp đóng cửa, ngày nghỉ ở Đức tất cả đều không làm việc. Sau đó, Bob đưa tôi về nhà, giới thiệu vợ: có nhớ cô này không, trước đây chắc mày đã gặp? Thấy tôi hơi ngơ ngác, Bob bảo: đây là cô vợ hai. Cô ngày trước hay sang phòng bọn mình là vợ đầu, bỏ tao rồi.
Bob người Armenia, dân khoa Anh, rất giỏi buôn bán. Thời sinh viên hắn cưa được cô người Đức sang thực tập tiếng bên trường Tổng hợp. Được một năm, cô bạn quay về Đức và hắn thường xuyên qua đó. Mỗi lần lại thấy hắn gói gém mấy cái tranh thánh rất kĩ để mang đi, tôi cũng không hiểu để làm gì. Thời Liên Xô, tôn giáo không được hoan nghênh, nhiều nhà thờ gần như bỏ hoang nên việc kiếm tranh thánh chắc không khó. Giờ nghe kể mới hiểu là ngay từ thời đó hắn đã biết buôn tranh thánh. Bob đi trước thời đại rất nhiều năm. Giờ tranh thánh giá vô cùng đắt, không biết bao nhiêu mà kể.
Bob kể: tốt nghiệp rồi tao sang Đức, cưới cô vợ mà mày biết. Thời đó mấy ai biết buôn bán, nhất là buôn tranh thánh, ngạch hàng độc này. Tao giàu lên nhanh chóng, chắc cũng thuộc diện giàu nhất Berlin. Nhưng là thằng nước ngoài mà giàu quá thì dễ bị gen ghét, đố kị. Tôi hỏi: tưởng chỉ dân châu Á bọn tao mới có tính đố kị? Bob nói: không, dân Đức cũng vậy thôi. Khi chưa giàu thì không sao, giàu lên là hàng xóm nó ghét, rồi nó báo chính quyền. Mà chính quyền cũng đểu, lúc đầu họ không sờ đến, coi như không có chuyện gì rồi đến lúc đủ béo là họ đến thu tất. Bob bị tịch biên tài sản, đi bóc lịch một thời gian, vợ bỏ. Mất tất. Nhưng Bob giỏi, ra tù lấy vợ rồi làm lại từ đầu. Giờ kinh tế cũng khá. Bob nói, tao bây giờ khôn rồi, mọi thứ kín đáo chứ không phô trương như trước.
Sau đó vài tháng, qua người quen đi công tác Bob còn gửi đôi dày tặng con gái đầu lòng mới sinh của chúng tôi.
Chiều đông năm 1993, một lần trên đường về nhà tôi lại tình cờ gặp Bob trong tàu điện ngầm. Hai thằng đi với nhau mấy bến rồi chia tay. Hắn cười nói: tao bây giờ đổi nghề sang làm chuyên gia lobby rồi. Bob còn nói, dân Việt bọn mày bên Đức mafia quá, báo chí đưa tin rất nhiều. Bob sang Nga công chuyện, trước khi về tranh thủ tạt qua nhà thăm người họ hàng. Tiếc là gặp nhau vội vã, lúng túng thế nào mà không ghi lại điện thoai của nhau nên từ đó mất liên lạc.
Đúng là trái đất nhỏ thật!
Uống cà phê ở Posdam. Thứ 7, Hà đến đón tôi đưa đi chơi Posdam, thành phố cách Berlin không xa. Posdam nhỏ nhưng rất đẹp, cả thành phố như một công viên với khá nhiều lâu đài. Chúng tôi thăm cung điện Sanssouci, dạo công viên, ruộng nho bậc thang. Lúc này mua thu đang ở giai đoạn rực rỡ. Tôi đặc biệt ấn tượng mùa thu vàng ở đây. Sau đó Hà đưa tôi đi thăm lâu đài Cecilienhof nơi năm 1945 diễn ra hội nghị Posdam. Lãnh tụ 3 nước Đồng minh Anh, Mỹ, Nga: Churchill, Truman và Stalin đã ký kết hiệp định phân chia nước Đức, kết thúc chiến tranh thế giới thứ 2. Tôi vẫn nhớ cái gian phòng với bàn họp tròn và cái ghế Stalin ngồi mà người ta nói với tôi về sau có người hâm mộ dã khoét trộm đi một miếng.
Thăm quan xong, Hà rủ tôi vào quán ăn trưa rồi uống cà phê. Quán nằm ngay tại lâu đài. Vào quán, xem menu tôi thấy hoa cả mắt vì toàn món rất đắt. Hà nói: quán này đắt vì phục vụ cho dân nhà giàu, nhưng anh đừng ngại. Tiền của viện HLKH Đức, chúng ta được tiêu thoải mái nhưng không được lấy tiền mang về. Xem menu, nhờ Hà giải thích qua tôi lấy đại một hai món rẻ nhất. Vẫn nhớ cái món súp trong cái cốc nhỏ được giới thiệu là làm từ sữa chim, giá 27 mác. Đắt thế chắc là quí và ngon lắm. Húp xoẹt cái là hết, cũng chẳng có gì đặc biệt, tựa như món súp nước gà ninh. Cứ tiếc, 27 mác này giá mà được đổi sang mua vài cái xích xe đạp, mang về nhà bán thì có thêm ít tiền nuôi con.
Dân Việt mình thời đó ra nước ngoài khổ thế đấy.
Berlin-Moscow, chuyến bay bão táp. Tạm biệt nước Đức tôi bay về nước, transit qua Moscow. Đáng lẽ bay từ đầu giờ chiều mà chờ mãi mới được bay. Bay đến nơi thì trời đã tối đen. Máy bay cứ vòng đi vòng lại mãi mà không hạ cánh. Hành khách không hiểu vì sao mãi đến khi mọi người bắt đầu hoang mang, nhốn nháo thì mới được thông báo là do trời mù, báy bay phải hạ cánh xuống sân bay Leningrad. Máy bay hạ cánh, phải gần 2 tiếng sau mới được rời máy bay để xe đưa vào sân bay. Trước đó các cô tiếp viên hàng không đi phát cho mỗi người một quả táo. Sau mới biết chờ lâu vậy là vì trời mù rất nhiều máy bay phải bay dạt về Leningrad. Nghe nói có đến hàng trăm chiếc. Vào được đến sân bay thì thấy cả biển người chen chúc, Tất cả tê liệt trừ bộ phận biên phòng. Biên phòng cho qua rất nhanh, mỗi người chắc không đến một phút. Họ chỉ lật nhanh hộ chiếu, xem mặt rồi đóng dấu cho qua. Hải quan thì biến mất, không một bóng người. Trời rét, hàng quán thì không, chúng tôi vật vạ hơn một ngày trời, vừa rét vừa đói khát. Không có tiền mang theo như tôi đã đành, người có tiền cũng vậy, chẳng có gì mà mua. May có quả táo chống đói được đôi chút.
Hơn một ngày trời, nửa đêm ngày hôm sau thì thấy xe bus ùn ùn từ thành phố đi tới để đưa mọi người ra ga tàu hỏa. Dân tình chen đạp nhau để lên xe, đến ga lại chen nhau lên tàu. Không rõ sẽ có mấy chuyến nhưng ai cũng sợ không có chuyến sau nên đều cố chen để lên được chuyến tàu đầu tiên. Tôi cũng nhanh chân chiếm được một chỗ tầng 2 trong khoang 6 người. Tàu Liên Xô thời trước, muốn có ga trải giường, vỏ chăn gối phải mất tiền 1 rub. Vì không có tiền nên tôi không có chăn đệm. Tôi nói với cô tiếp viên: đây là lỗi của hàng không, các cô có thể cho tôi chăn đệm được không? Cô trả lời: hàng không là chuyện của hàng không, đường sắt là đường sắt, chúng tôi không chịu trách nhiệm của hàng không. Đành phải chịu. Thế là tôi mặc nguyên quần áo dài, leo lên giường nằm co ro, vừa đói vừa rét. Cùng khoang với tôi và khoang bên cạnh là nhóm vận động viên của đổi tuyển trượt tuyết Liên Xô mới đi tập huấn nước ngoài về. Họ giở đồ hộp, bánh mì ra ăn và mời tôi ăn cùng. Vừa đút vào mồm miếng bánh mì phết trứng cá thì miệng muốn ói, phải chạy vội ra toilet rồi nôn thốc nôn tháo. Nôn toàn ra mật xanh mật vàng, nôn khô vì trong bụng có gì đâu mà nôn. Có lẽ vì quá đói, vì mùi tanh của trứng cá nên bị như vậy. Thấy vậy, mấy cậu người Nga mua cốc chè đường nóng bảo tôi uống, một hồi sau mới đỡ mệt.
Về đến Moscow, tôi nghỉ lại mấy ngày tại phòng kí túc xá của người anh tại trường hóa Medelev, vừa lo mua hàng đóng gói, vừa rình khi có chuyến thì bay về. Đợt ấy Moscow trời mù mịt, kéo dài cả tuần, lâu lâu mới có một vài chuyến bay thoát. Không hiểu vì thỉnh thoảng có lúc sương tan hay họ có những công nghệ làm tan sương. Cuối cùng thi tôi cũng bay về được Việt Nam an toàn.
Có lẽ thu hoạch lớn nhất của chuyến đi là tôi mua và mang về được hơn chục hộp sữa Similac, chuẩnn bị cho cô con gái đầu lòng sắp ra đời.
Moscow 08-11-2021, cuối thu năm Covid thứ 2.